Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013

Lễ hội Xuân đình làng Giếng Tanh

Vào những ngày đầu xuân hàng năm, trên miền đất Tuyên Quang với khu di tích lịch sử Tân Trào nổi tiếng mà cả nước biết đến, còn nhiều lễ hội đặc sắc thu hút sự quan tâm của khách thập phương như lễ hội nhảy lửa của người Pà Thèn ở xã Hồng Quang huyện Chiêm Hóa, lễ hội Chọi trâu ở huyện Hàm Yên, lễ hội rước Mẫu ở Đền Hạ phường Tân Quang, lễ hội Lồng tông của người Tày Chiêm Hóa, lễ hội cầu mùa của làng Tân Lập xã Tân Trào huyện Sơn Dương ... trong đó lễ hội Đình làng Giếng Tanh thuộc làng Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang có một ý nghĩa tâm linh sâu sắc và còn giữ được nguyên bản những nét văn hóa độc đáo của dân tộc Cao lan. Thật may mắn và hạnh phúc khi mùa xuân năm nay, tôi lại được trở lại mảnh đất này để tham dự lễ hội sau nhiều năm xa cách.
Theo lịch sử xa xưa của làng truyền lại, những người Cao Lan đầu tiên trên con đường đi tìm đất lập làng đã rất sung sướng khi tìm ra một vùng đất bằng phẳng, cây cối tốt tươi và đặc biệt là nguồn nước trong vắt mang mùi tanh của vị đất được hình thành tự nhiên như một cái giếng không bao giờ cạn. Đoàn người Cao Lan đã dừng lại nơi đây lập thành làng Giếng Tanh và xây dựng đình thờ để ghi nhớ công ơn các vị thần linh đã phù trợ cho dân làng. Qua thần phả, đình làng Giếng Tanh được xây dựng vào năm Bính Tuất (1706) thờ hai vị tướng của vua Hùng là “Đức vua cả Ngọc Sơn quân linh ứng Đại vương” và “Đức vua cả Nghiêm Sơn Trung chính lệnh ứng Đại vương” đã đến miền đất Yên Sơn để bảo vệ cho dân làng Giếng Tanh. Đình làng còn thờ Quốc Mẫu Thiểm Hoa công chúa, thần Nông, thần Thổ Địa và Long vương đã phù trợ cho dân bản tìm ra nguồn nước trong lành, đất đai phì nhiêu, mùa màng tươi tốt, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Ảnh minh họa: Đình làng Giếng Tanh

Để cảm ơn trời đất và các vị thần linh, hàng năm cứ vào ngày mồng mười tháng giêng âm lịch, lễ hội đình làng Giếng Tanh lại được tổ chức trọng thị với sự tham gia đầy đủ của chính quyền và các tổ chức quần chúng trong xã, của dân làng và cả khách thập phương tới dự. Trong phần lễ dâng hương, cúng tế vật phẩm theo truyền thống cổ xưa, các cụ già khăn áo chỉnh tề đứng trước bàn thờ kính cẩn bái lễ qua sự điều hành của người chủ tế. Tiếng nhạc lễ vang lên trong khói hương nghi ngút càng làm tăng thêm vẻ linh thiêng, thành kính của buổi lễ tạ ơn các vị thần linh đã đem lại mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho cả dân làng.
Sau các nghi thức long trọng của phần lễ, phần hội đã được tiến hành trong không khí nhộn nhịp, sôi động của nhiều trò chơi dân gian truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa, phong tục tập quán cổ xưa của người Cao lan. Khách tham dự lễ hội không thể bỏ qua lời hát Sình ca với những làn điệu thiết tha, say đắm ngợi ca về tình yêu lứa đôi, một lối hát tỏ tình đằm thắm mà một bên là những cô gái dịu dàng duyên dáng pha chút e lệ, một bên là những chàng trai mạnh mẽ, sôi nổi, thiết tha và họ đã hiểu nhau qua ánh mặt hẹn hò, qua khúc hát giao duyên tình tứ. Người già trong làng kể lại rằng, xưa kia có những cặp hát “say” nhau , họ đã băng qua những cánh rừng, làng bản, nương rãy ... mà tiếng hát yêu thương vẫn ngân vang không dứt. Điều kỳ diệu là không ít những đôi trai gái đã trở thành bạn tình ngay sau đêm hội đáng nhớ ấy. Ngoài ra, những trò chơi dân gian như kéo co, đẩy gậy, đi cà kheo, tung còn ... cũng được nhiều người tham gia khiến cho ngày hội làng thêm vui vẻ, sôi động. Trên một khoảng đất rộng, trò chơi tung còn thu hút được nhiều người chơi với nhiều lứa tuổi khác nhau nhưng nhiều nhất vẫn là thanh niên, học sinh. Nhìn những quả cầu ngũ sắc có nhiều tua dài vun vút bay lên bầu trời xuân và đều tập trung vào tâm điểm là vòng tròn được treo trên ngọn một cây tre dài, tôi mới thấy hết được niềm náo nức của cả hàng trăm người đang “tắm mình” trong không khí lễ hội.
Trân trọng và yêu quí hơn khi người dân Cao Lan ở đây vẫn lưu giữ cho mình những bộ nhạc cụ cổ như trống, chiêng, thanh la, kèn tổ sâu, nhị, sáo, chuông ... và nhiều làn điệu dân vũ như múa “khai đèn”, múa “xúc tép”, múa “chim gâu” tái hiện lại những cảnh sinh hoạt của đời sống thường ngày một cách gần gũi và sinh động. Chính lớp người già của làng đã có vai trò giữ gìn, truyền dạy, tiếp lửa cho lớp trẻ, lớp con cháu hôm nay lòng tự hào về truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Cao lan từ việc sử dụng những nhạc cụ dân tộc, những điệu múa sinh động đến những khúc hát Sình ca thấm đậm lòng người. Điều đó đã làm cho ngày hội đình làng Giếng tanh mang đậm nét tâm linh, huyền ảo nhưng vẫn gần gũi, say đắm đối với mỗi người.

*
                                                                                                *       *

Tạm biệt với làng văn hóa Giếng Tanh mà đời sống về tinh thần và vật chất của đồng bào dân tộc Cao Lan nơi đây không ngừng đổi mới; tạm biệt với lễ hội xuân đình làng Giếng Tanh mà lòng tôi cứ bồi hồi, xúc động như không muốn dời. Chân đã bước mà hình ảnh những điệu dân vũ vẫn hiện lên trong tâm trí và đặc biệt những câu hát Sình ca như vẫn ngân vang tha thiết, xao xuyến vẫy gọi lòng người hẹn ngày tái ngộ.

Hồn Việt, tình xuân qua trò chơi dân gian ngày tết



Cứ mỗi độ Tết đến – Xuân về, trên khắp đất nước Việt Nam, nhất là các vùng quê lại nhộn nhịp một không khí lễ hội với ước muốn về một năm mới may mắn tốt lành, con người khoẻ mạnh, vui tươi hạnh phúc, làm ăn thuận buồm xuôi gió. Trong những lễ hội ấy, trò chơi dân gian truyền thống có một vị trí đặc biệt, không thể thiếu được.
Ngay từ xa xưa, trò chơi dân gian đã trở thành nét sinh hoạt văn hoá đặc sắc mang tính chất cộng đồng phản ánh phong tục tập quán và những ước vọng của ông cha ta muốn gửi gắm trong đó. Như vậy, trò chơi dân gian trong lễ hội không chỉ đơn thuần vui chơi giải trí mà quan trọng hơn nó còn mang yếu tố tâm linh được con người bầy tỏ với trời đất, với các lực lượng siêu nhiên với niềm mong ước cho cuộc sống “vạn sự tốt lành” nhân dịp đầu xuân mới. Chính vì ý nghĩa đó mà mỗi trò chơi dân gian đều hấp dẫn mọi người khi tự tạo nên một vẻ đẹp riêng cho mình. Vì thế, trò chơi nào cũng chứa hồn Việt, tình xuân trong một không gian mùa xuân ấm áp, trong sắc màu của muôn hoa đua nở, trong lòng người chứa chan niềm vui và hy vọng.
Đầu tiên phải nói đến trò đánh đu - một trò chơi phổ biến trong hầu hết các lễ hội xuân thuộc đồng bằng Bắc bộ. Cây đu được dựng lên hoàn toàn bằng tre giữa một bãi đất rộng, phía trên là bầu trời xuân khoáng đạt. Cây đu từ bao đời nay đã tạo nên sự gần gũi, vui vẻ, yêu thương của tình làng nghĩa xóm và cũng là nơi hẹn hò, vui chơi của các bạn nam thanh nữ tú. Trò chơi này nhất thiết phải có nam có nữ để tạo thành đôi với quần áo rực rỡ sắc màu, với sự kết hợp khéo léo của đôi tay, của cặp chân của các cơ bắp, để nhún cho đều và khi đôi trai gái nào đưa cây đu bay thật cao, thật đẹp trong bầu trời xuân sẽ được người xem đứng chung quanh vỗ tay tán thưởng. Hội xuân nào có nhiều cặp đu đẹp thì năm ấy được coi là một năm thuận lợi vì trời đất đã hợp với lòng người, vì giữa âm dương có mối giao cảm hoà hợp.
Trò chơi đấu vật được tổ chức nhân ngày đầu xuân cũng khá phổ biến ở nhiều vùng, nhiều nơi trên đất nước ta. Đấu vật vừa là một trò chơi dân gian vừa là một môn thể thao có từ lâu đời được mọi người rất ưa chuộng. Ở đâu có sới vật là ở đó sôi động một không khí vui xuân đầy tinh thần thượng võ được người xưa coi là một hình thức để tôn vinh sức mạnh dương tính. Sới vật đầu xuân đã hội tụ được rất nhiều những đô vật của các làng, các vùng, các lò vật nổi tiếng đến thi tài. Đấu vật đã tạo nên nét đẹp uyển chuyển, mạnh mẽ của những thế vật cổ truyền, nét đẹp của cơ bắp rắn chắc và tinh thần thi đấu bền bỉ, dẻo dai, quyết liệt của các đô vật khiến ngày hội xuân thêm náo nhiệt trong sự cổ vũ không ngớt của người xem đông đảo. Với sự sắp đặt mang ý nghĩa tượng trưng, sới vật hình tròn là biểu tượng của mặt trời được đặt trước sân đình hình vuông tượng trưng cho đất nói  lên sự kết hợp hài hoà, thống nhất giữa âm và dương. Như vậy, hình tròn là mặt trời mang tính dương, các đô vật nam với khí thế mạnh mẽ cũng mang tính dương thể hiện mong muốn cho dương thịnh để mưa thuận gió hoà, mùa màng xanh tốt, con người được ấm no hạnh phúc.
Trong không khí vui xuân của các làng quê Việt Nam, cờ người được xem là một hình thức vui chơi trí tuệ và cũng là một môn thi đấu thể thao đầy hấp dẫn. Cờ người đã đem đến cho hội xuân một không khí sôi nổi, náo nhiệt của những âm thanh đặc biệt trong tiếng reo hò của người xem đứng chật sân đình, trong tiếng trống lệnh giục cờ, tiếng trống thôi thúc nước đi, tiếng trống ăn quân, tiếng trống chiếu tướng ... Trên sân đình, bàn cơ được bày ra với những quân cờ đen, trắng được cắm ở những vị trí xuất phát. Xưa kia, quân cờ phải là người thật (cờ người) được kén chọn từ những trai làng, những thiếu nữ duyên dáng với áo quần mầu sắc đẹp đẽ. Bây giờ cuộc cờ đơn giản đi nhiều nhưng trò chơi này vẫn được mọi người tham gia và cổ vũ nhiệt tình. Hình ảnh về hai người chơi như hai vị tướng cầm quân theo trống lệnh lúc lui, lúc tiến với vẻ mặt suy tư trong từng nước đi. Trong khi đó, người xem cũng chia thành hai phái ủng hộ người chơi trong tiếng reo hò động viên cuồng nhiệt. Cờ người là trò chơi mang tính chất tập thể cao đã làm cho tình người, tình xuân nơi thôn giã thêm gắn bó thân thiết trong tình làng nghĩa xóm và quan trọng hơn còn mang lại một khí thế mới cho con người trong cuộc sống mưu sinh đang chờ phía trước. Cờ người mãi mãi vẫn là một trò chơi được nhiều người ưa chuộng và có giá trị văn hoá đặc sắc cần được giữ gìn và phát triển.
Nếu chúng ta có dịp về thăm một số vùng quê thuộc tỉnh Hải Dương mỗi dịp xuân về, người dân ở đây vẫn giữ được một phong tục đẹp, một trò chơi xuân đầy ý nghĩa – trò ném pháo đất. Người chơi đã phải rất công phu trong cách chọn đất sét dẻo quánh và cách nặn pháo, ném pháo để tạo nên tiếng nổ to và dây đất còn lại bên rìa pháo đất phải dài, phải đẹp. ý nghĩa của trò chơi này được người xưa lý giải thật sâu sắc theo thuyết âm dương hoà hợp: đất là biểu tượng cho tính âm, tiếng nổ của pháo đất như sấm rền là âm thanh của trời mang tính dương. Vì vậy, pháo đất nổ to, nổ rền là điều may mắn, thịnh vượng cho cả làng.
Mừng đón xuân về, đồng bào các dân tộc miền núi còn có trò chơi đi cà kheo sau này được đưa vào chương trình thi đấu của các lễ hội. Cà kheo được làm bằng hai đoạn tre dài tới ba mét, có điểm đỡ để bàn chân đặt lên. Điểm đỡ càng cao thì người đi cà kheo càng vươn cao và bước đi càng dài, càng nhanh. Trò chơi này có cả nam, nữ tham gia tạo nên sự hài hoà âm dương và đòi hỏi người chơi phải khéo léo, nhanh nhẹn trong việc kết hợp giữa tay  và chân để cà kheo thăng bằng khiến cho bước đi uyển chuyển, đẹp mắt. Trên một bãi đất rộng, nhiều nam nữ thanh niên cùng chơi, có người đi được cả một đoạn đường dài, có người trượt ngã nhưng niềm vui trong tiếng nói, tiếng cười rôm rả khiến cho sắc xuân nơi bản làng thêm vui tươi rộn rã. Ngoài ra, còn phải kể đến khá nhiều trò chơi khác cũng không kém phần sôi nổi, hấp dẫn như kéo co, bịt mắt đập niêu, bắn nỏ, múa rồng, ném còn, ...

Có thể nói, những ngày đầu xuân của tết cổ truyền Việt Nam là những ngày của lễ hội với sự hiện diện của các trò chơi dân gian truyền thống đã tồn tại từ hàng ngàn năm nay. Mùa xuân về, bên cạnh những trò chơi mới được du nhập vẫn không thể thiếu những trò chơi dân dã vì những trò chơi này đã gắn liền với tập quán sinh hoạt của người Việt, phản ánh ý tưởng mang tính chất tâm linh của ông cha ta về vũ trụ, nhân sinh mong muốn cho quốc thái, dân an. Trong sự phát triển không ngừng của đời sống xã hội, với sự chuyển dịch của thời gian, quan niệm về ngày tết của người Việt cũng có những thay đổi, nhưng chúng ta không thể làm mất đi những trò chơi dân gian từng chung sống, gắn kết với nhiều thế hệ người Việt Nam với vẻ đẹp truyền thống không thể thay thế mỗi khi Tết đến – Xuân về.

Học sinh và nhân phẩm

_____________________


Trong cuộc sống hàng ngày, vấn đề nhân phẩm luôn được đặt ra đối với con người chân chính như một thứ báu vật được nâng niu, quý trọng vì nó làm nên giá trị đích thực của mỗi con người. Chính phẩm chất sống cao đẹp, biết tôn trọng kỷ cương pháp luật với nếp sống văn hóa lành mạnh, biết tôn trọng mọi người ... đã tạo nên nhân phẩm tốt đẹp của một con người. Nhân phẩm con người được hình thành trong quá trình rèn luyện, tích lũy, gìn giữ và luôn được bồi đắp thêm trong môi trường học đường, trong cuộc sống hàng ngày và trong suốt cả đời người. Vì vậy, mỗi học sinh phải có ý thức trau dồi nhân phẩm của mình ngay từ buổi đầu tiên cắp sách tới trường.
Đối với học sinh, nhân phẩm không phải cái gì xa lạ mà chính là  ý thức tự giác của mỗi người để thực hiện tốt kỷ luật, kỷ cương của nhà trường trong tu dưỡng đạo đức, trong học tập và giao tiếp hàng ngày, trong các hoạt động tập thể rèn luyện phẩm chất toàn diện ở mỗi học sinh. Nhân phẩm còn được thể hiện bằng tình cảm chân thành của đạo thầy trò, của tình bạn hữu trong một tập thể lớp đoàn kết, thân thiện, của một phong cách giao tiếp văn minh, thanh lịch qua thái độ, lời nói, cử chỉ nhã nhặn, mực thước, chân tình. Chính những học sinh có kết quả phấn đấu tu dưỡng tốt được công nhận là học sinh giỏi, xuất sắc, tiên tiến được nhà trường và các cấp khen thưởnglà những học sinh điển hình thể hiện rõ nhất phẩm chất và danh dự của mình. Trái lại, những học sinh chưa ngoan với những biểu hiện về ý thức kỷ luật kém, làm mất đoàn kết trong tập thể lớp, chơi bời không chịu siêng năng học tập, nói năng giao tiếp thiếu lịch sự ... chính là những học sinh đã tự bôi đen nhân phẩm của mình, gây nỗi phiền hà, lo lắng cho nhà trường và gia đình, cho các thầy cô giáo và các bậc ông bà, cha mẹ.
Người có nhân phẩm là người có lương tâm, sống theo đạo lý và luôn có nhu cầu về tinh thần và vật chất lành mạnh. Chính những học sinh được giáo dục toàn diện trong môi trường học đường, sau này trưởng thành sẽ là những công dân biết sống có lý tưởng, có trách nhiệm đối với cộng đồng và quê hương đất nước. Khi người học sinh biết yêu mến và tự hào về truyền thống văn hóa, lịch sử của dân tộc mình, đất nước mình với khát vọng muốn được công hiến trí tuệ và sức lực để làm đất nước giầu đẹp hơn, sánh vai với các nước khác trên thế giới là biểu hiện cao đẹp nhất của phẩm chất con người. Sự đóng góp về nhiều lĩnh vực như trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, trong học tập, nghiên cứu khoa học, trong lĩnh vực nghệ thuật, văn học, thể thao,... của một lớp người như: Phạm Tuân, Lê Mã Lương, Tôn Thất Tùng, Lê Văn Thiêm, Ngô Bảo Châu, Đặng Thái Sơn, Lê Quang liêm và nhiều người khác là những thí dụ điển hình về nhân phẩm con người Việt Nam.
Người có nhân phẩm luôn được xã hội đánh giá cao và được mọi người yêu quí, kính trọng, noi gương. Họ được cộng đồng biết ơn vì đã góp phần bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng phát triển. Còn những kẻ đánh mất nhân phẩm sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội khi dễ dàng làm những việc trái với lương tâm đạo đức, thâm chí có thể phản bội lại quyền lợi của nhân dân, đất nước sẽ bị dư luận xã hội lên án, phê phán.
Nhân phẩm và danh dự có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau. Khi con người tạo ra cho mình những giá trị tinh thần, đạo đức, tài năng được xã hội công nhân, ca ngợi thì người đó khẳng định được vị thế, danh dự của mình. Người có nhân phẩm là người luôn biết tôn trọng danh dự, luôn có trách nhiệm đối với bản thân trước những công việc mà mình đảm nhiệm. Trên cơ sở đó, lòng tự trọng sẽ được hình thành giúp ta có lập trường kiên định để làm chủ chính mình, kiềm chế những nhu cầu, ham muốn tầm thường để biết suy nghĩ, hành động và biết sống theo những quy tắc, chuẩn mực về đạo đức đồng thời cũng biết quý trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
*
                                                                                                *       *

Như vậy, nhân phẩm là vốn quí, là đạo lý, danh dự và lẽ sống cao đẹp mà mỗi học sinh cần nhận biết, cần rèn luyện, bồi đắp trong suốt cả cuộc đời mình. Chỉ con người có nhân phẩm mới thực sự tạo cho mình một cuộc sống thanh sạch, hạnh phúc, luôn giúp ích cho đời và mang ý nghĩa nhân văn cao cả được mọi người yêu mến, ca ngợi

Học sinh phải biết tự hoàn thiện bản thân mình




Trong mỗi con người, ai cũng muốn sống tốt đẹp, sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Đó là một mong muốn rất chính đáng, rất nhân bản. Tuy vậy, để đạt được ước vọng đó, không phải tự nhiên bỗng có mà đòi hỏi mỗi con người cần có quyết tâm, nghị lực tự hoàn thiện mình để luôn giữ được phẩm chất cao đẹp của con người. Thực tế cuộc sống với những mối quan hệ xã hội phức tạp hàng ngày, vấn đề hơn thiệt, được mất, vấn đề nhân phẩm luôn hình thành trong con người những mặt sáng và khoảng tối, những cái cao cả và thấp hèn ... đòi hỏi con người phải đấu tranh, lựa chọn để tâm hồn luôn trong sáng, hành vi luôn đẹp đẽ.
Tự hoàn thiện bản thân cũng là một việc làm vô cùng quan trọng đối với học sinh trong lứa tuổi học đường, lứa tuổi đang cần rèn luyện, phấn đấu về nhiều mặt để chuẩn bị hành trang bước vào đời. Tuổi học sinh là tuổi hoa, tuổi của những ước mơ hoài bão đẹp đẽ, trong sáng nhưng cũng dễ bị ảnh hưởng từ những điều chưa tốt trong nhận thức, cách sống do tác động từ xã hội bên ngoài, do bạn bè lôi cuốn và nhất là do sự buông lỏng bản thân trong việc rèn luyện, tu dưỡng hàng ngày. Vì thế, tất cả các em học sinh, nhất là các em còn có những sai phạm về ý thức kỷ luật học đường phải thường xuyên đấu tranh với bản thân mình để cái xấu bị đảy lùi, cái tốt luôn được khẳng định và phát triển. Ngay cả những em học sinh không may bị khiếm khuyết về khả năng đi lại, nghe nói, .. nếu có quyết tâm vẫn có cách tự hoàn thiện mình để hòa nhập với tập thể. Tất nhiên, sự giúp đỡ, động viên của các thầy cô giáo, của các bậc ông bà, cha mẹ cùng mọi người là hết sức cần thiết.
Không ít những khuyết điểm của học sinh về ý thức kỷ luật, về tính nết, về những thói quen xấu còn tồn tại đòi hỏi các em phải tự rèn luyện một cách nghiêm túc bằng chính ý chí và nghị lực của mình để vươn lên. Lòng tự trọng, tự tin sẽ trở thành động lực để các em biết vượt qua những trở ngại khó khăn, những mặc cảm tự ty để không ngừng hoàn thiện bản thân với nét đẹp của người học sinh có cách sống văn minh, thanh lịch.
Rất nhiều những tấm gương xưa và nay về tinh thần đấu tranh vượt lên chính mình, khắc phục những thói xấu, những khiếm khuyết để trở thành người tốt, hòa nhập với cộng đồng. Chắc chắn các em sẽ không quên nhân vật Paven Coóc sa ghin trong tác phẩm “Thép đã tôi thế đấy” của nhà văn Nicôlai Ôxtơrốpxki. Paven là một chiến sĩ Hồng quân Xô viết dũng cảm trong chiến đấu bảo vệ chính quyền và cũng là tấm gương lao động quên mình để xây dựng nhà nước Xô viết non trẻ. Tuy vậy, ở anh cũng còn tồn tại những khuyết điểm như hút thuốc lá, nói tục và nóng nẩy, cục cằn trước phụ nữ. Bằng nghị lực và nghiêm khắc tự rèn luyện thường xuyên hàng ngày, Paven đã khắc phục được những thói xấu đó để nhân cách mình tốt đẹp hơn.
Câu chuyện về Đêmốt – xten (384 – 322 Trước CN) là nhà hùng biện, một chính khách thời cổ người Hy lạp sẽ là bài học sinh động, bổ ích và đầy thuyết phục đối với học sinh về nghị lực vượt qua khuyết tật để thực hiện bằng được những hoài bão cao đẹp của mình. Đêmốt – Xten thời trẻ có tật nói ngọng, nói lắp thường bị bạn bè chế nhạo. Để khắc phục nhược điểm này, cứ mỗi buổi sáng sớm hàng ngày, ông có mặt tại bãi biển, miệng ngậm sỏi và tập nói át cả tiếng sóng. Sự khổ luyện không biết mệt mỏi đã giúp ông có giọng nói dõng dạc đầy thuyết phục và ông đã trở thành nhà hùng biện nổi tiếng được người đời ca ngợi. Những tấm gương tự rèn luyện bản thân như vậy rất đáng được học sinh chúng ta trân trọng, học tập.
Vì vậy, tự hoàn thiện bản thân đối với học sinh là không ngừng tu dưỡng, học tập, lao động, rèn luyện nhằm phát huy những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm; học hỏi những điều hay, điều tốt từ bạn bè để bản thân mình càng tốt hơn. Những thói hư tật xấu như thiếu kỷ luật, vô lễ với các thầy cô giáo, coi thường kỷ cương của nhà trường, học tập chểnh mảng, ăn nói tục tằn, cãi vã đánh nhau ở chốn học đường ... cần được học sinh tự nhìn nhận một cách nghiêm túc để dứt khoát từ bỏ những thói xấu, bồi đắp những đức tính tốt đẹp, xứng đáng là người học sinh có văn hóa.
Trong thời đại hiện nay, học sinh có nhiều điều kiện thuận lợi để tự hoàn thiện bản thân mình với sự quan tâm, giáo dục, giúp đỡ của nhà trường, của các thầy cô giáo; của gia đình, ông bà cha mẹ và của toàn xã hội. Tuy vậy, vai trò tự thân vận động vẫn là điều quyết định để mỗi học sinh vươn lên trở thành những con người có phẩm chất tốt đẹp được mọi người mến mộ. Tự hoàn thiện bản thân là việc làm thường xuyên, tự giác, đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội và mang tính nhân văn sâu sắc.

Trần Cự

Cần hình thành trong học sinh về tấm lòng biết ơn đối với mọi người.


Trần Cự


Lòng biết ơn là một tình cảm tốt đẹp thể hiện phẩm chất, đạo đức của con người đối với cộng đồng trong mối quan hệ xã hội hàng ngày. Mỗi sự vật trên thế gian này đều đáng để ta phải biết ơn và khi luôn mang trong mình một ý thức, một tấm lòng biết ơn chúng ta mới có một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhân bản hơn. Nhìn lại lịch sử từ xa xưa, lòng biết ơn đã trở thành một truyền thống đạo lý trong giao tiếp, ứng xử đã được xã hội thừa nhận. Câu nói “uống nước nhớ nguồn” của ông cha ta truyền lại đến bây giờ đã khẳng định sự cần thiết phải hình thành tấm lòng biết ơn trong mỗi con người.
Với nhận thức trên, thế hệ trẻ ngày nay nói chung, học sinh trong nhà trường nói riêng rất cần tạo cho mình một thói quen đạo đức về tấm lòng biết ơn đối với xã hội. Từ trong nhận thức, chúng ta cần thấy rằng trên thế giới này, ngoài bố mẹ là người đã sinh thành, nuôi dưỡng, chúng ta còn phải mang ơn rất nhiều người đã tạo điều kiện để ta sống và tồn tại. Người nông dân một nắng hai sương cho ta cơm gạo, nhà trường cho ta kiến thức, người công nhân dệt nên vải vóc cho ta may quần áo, người thợ xây cho ta nhà ở những liệt sĩ không tiếc máu xương đó đem lại cuộc sống Độc lập, tự do cho chúng ta Ngay cả một việc nhỏ nhất khi ta lạc đường cũng cần có người giúp đỡ, chỉ dẫn. Tất cả những con người ấy với nhiều công việc và nghề nghiệp khác nhau trong xã hội đã mang trí tuệ, công sức và lòng nhiệt tình để tạo nên của cải tinh thần và vật chất giúp ta có một cuộc sống tiện nghi, đầy đủ, hạnh phúc. Chả lẽ chúng ta lại dửng dưng trước công ơn của những con người ấy?
Một thực tế hiện nay là không ít học sinh còn vô tâm trong cuộc sống hàng ngày mà mình đang được hưởng thụ. Từ việc được chăm sóc chu đáo thường xuyên ở nhà, đến việc đầy đủ phương tiện, đồ dùng học tập khi cắp sách đến trường; các em đều được gia đình chăm lo, ưu ái nhưng mấy khi các em nghĩ đến nỗi nhọc nhằn kiếm sống của cha mẹ để nuôi con ăn học? Các em có thấy hết được lòng yêu thương và sự tận tình của các thày cô giáo trên từng tiết giảng bài để giúp chúng ta nắm vững kiến thức và mở rộng tầm hiểu biết đối với cuộc đời? Có ai trong chúng ta dửng dưng trước những nỗi vất vả của những người lao động làm thuê từng ngày trong cuộc sống phải bươn chải khó khăn? Tất cả những điều vô tâm ấy cần được học sinh chúng ta nhìn nhận lại để có một cách sống, một cách cư xử đúng đắn mang đậm tình người. Đó là chưa kể đến những chuyện đau lòng đã từng xảy ra như việc con cái không biết nghe lời, thậm chí còn ngược đãi đối với cha mẹ; học sinh không tuân thủ kỷ cương nhà trường, vô lễ đối với thày cô giáo và tệ hại hơn, có những em còn lêu lổng chơi bời với cuộc sống buông thả! Những biểu hiện về cách sống đó cần phải loại bỏ vì nó không phù hợp với đạo lý thông thường.
Khắc sâu một tấm lòng biết ơn đối với mọi người, học sinh chúng ta trong nhà trường đã thể hiện một cách sống đẹp khi biết đề cao và tôn trọng mọi người để từ đó biết cách cư xử, giao tiếp mang đậm nét văn minh, lịch sự. Đây cũng là một biểu hiện của phẩm chất khiêm tốn, lễ phép, mực thước ở một con người có văn hoá mà mỗi học sinh cần rèn luyện. Một điều rất có ý nghĩa là trong nhà trường hiện nay đang có cuộc vận động về nếp sống học sinh thanh lịch với lời giáo huấn có tính chất chiến lược “Tiên học lễ, hậu học văn” rất phù hợp với việc hình thành thói quen về tấm lòng biết ơn đối với mọi người nhằm giáo dục tư cách đạo đức của học sinh. Một khi phẩm chất này đã trở thành nếp sống văn hoá thì từ cách nói năng đến cách cư xử, giao tiếp, người học sinh sẽ thực sự cú cỏch sống thanh lịch, đẹp đẽ. Những câu nói “cảm ơn”, “xin lỗi” được sử dụng kèm theo một thái độ nhã nhặn của các em sẽ khiến mọi người xung quanh có thiện cảm và các bậc cha mẹ, các thày cô giáo sẽ rất hài lòng, tự hào. Mang tấm lòng biết ơn đối với mọi người, tình cảm của học sinh sẽ chân thành trong sáng hơn, con mắt của các em nhìn cuộc sống tươi vui hơn và đặc biệt cách nhìn đối với những người lao động qua nhận thức của các em sẽ thiện cảm và biết tôn trọng hơn. Từ đó, những biểu hiện tiêu cực về một lối sống vô cảm, ích kỷ, thiếu quan tâm tới người khác ở tuổi học trò cũng dẫn dần mất đi, nhường chỗ  cho một cách sống đẹp, văn minh, thanh lịch.

Để hình thành thói quen về tấm lòng biết ơn, bản thân mỗi học sinh phải phấn đấu, tu dưỡng hàng ngày để phẩm chất tốt đẹp này trở thành một nếp nghĩ, nếp sống trong tình cảm thường trực của các em. Mặt khác, vai trò của gia đình, của các bậc phụ huynh học sinh và các thày cô giáo trong nhà trường là hết sức quan trọng nhằm góp phần uốn nắn, nhắc nhở, bồi dưỡng, giáo dục các em sớm hình thành thói quen về tấm lòng biết ơn để mỗi học sinh đều có một tâm hồn khoẻ mạnh, một niềm tin yêu đối với cuộc đời, một cuộc sống hạnh phúc đầy ý nghĩa trong thế giới tình cảm giữa con người.

HÃY QUAN TÂM KHI TRẺ BỊ TRÊU CHỌC, CHẾ GIỄU Ở TRƯỜNG



Trần Cự

Lớp học, trường học là môi trường thân thiện để học sinh rèn luyện, học tập trong tình cảm yêu thương, tận tình dạy dỗ của các thầy cô giáo, trong tình cảm bạn bè gắn bó. Tình bạn hữu đã giúp các em gần gũi nhau hơn và do đó cuộc sống học tập, sinh hoạt nơi học đường luôn rộn rã niềm vui của lứa tuổi học trò hồn nhiên, tinh nghịch. Tuy vậy, một thực tế còn tồn tại là vẫn có những học sinh đến trường trong nỗi lo âu khi bị bạn bè trêu chọc, chế giễu một cách quá đáng đã ảnh hưởng không ít tới tâm lý và sự phát triển tính cách của trẻ. Vậy trách nhiệm của nhà trường, của các thầy cô giáo, của các bậc ông bà, cha mẹ sẽ giải quyết thế nào để giúp các cháu thoát khỏi tình huống khó xử này ?
Tôi đã từng có dịp được tiếp xúc với một số phụ huynh có con học lớp 4 tại một trường tiểu học. Không ít bà mẹ rất bức xúc khi thấy mỗi lần con đi học về với nét mặt buồn bã, có khi lại dơm dớm nước mắt: "Mẹ ơi ! con không muốn đi học nữa !". Gặng hỏi mãi, bà mẹ mới biết rằng con mình luôn bị các bạn trong lớp trêu chọc, chế nhạo với nhiều lý do khác nhau khiến cháu cảm thấy mệt mỏi, chán nản không muốn đến lớp, đến trường.
Thực ra, sự trêu chọc giữa đám trẻ học trò với nhau là việc bình thường mang tính chất vui đùa chốc lát và nó sẽ qua đi như một cơn gió thoảng. Song những "trò vui đùa" này nếu lặp đi lặp lại nhiều lần, có chủ ý xúc phạm thì không phải tất cả trẻ con đều phản ứng như nhau: một số tự tín vào bản thân sẽ phớt lờ không để ý tới sự trêu chọc đó, còn một số khác cảm thấy bị tổn thương mà không dám bầy tỏ với tâm lý nặng nề.
Nguyên nhân dẫn đến việc trẻ bị giễu cợt, trêu chọc thì có nhiều và thường xảy ra đối với học sinh bậc tiểu học, trung học cơ sở. Những em có dáng quá mập mạp, những vết thâm tím trên da hoặc có những khuyết tật trên khuôn mặt, hoặc có "mốt" mới về kiểu tóc, về trang phục khác người... có thể là đối tượng để một số bạn bè thiếu ý thức chú ý và tìm cách trêu chọc, chế nhạo: "A, thằng Mập đến rồi!", "Màu tóc đỏ quá nhỉ ?", "Trời sắp mưa hay sao mà chớp nháy nhiều thế!"... Nếu sự trêu chọc này cứ diễn ra hàng ngày không được ngăn chặn kịp thời thì hậu quả dẫn đến sẽ khôn lường. Có thể trong lớp sẽ "hình thành" một nhóm học sinh luôn có "thói quen" giễu cợt bạn bè khiến cho lớp không thể trở thành một tập thể đoàn kết, yêu thương, gắn bó. Nguy hại hơn là những em bị trêu chọc nhiều lần sẽ bị ức chế về tâm lý, cảm thấy mệt mỏi và mất tự tin khi đến trường. Vì thế, không ít em cảm thấy ngại ngần, lúng túng khi gặp bạn bè, nhất là khi bị đặt "biệt danh" và luôn phải sống trong cảm giác sợ hãi, phấp phỏng, đề phòng.
Đứng trước sự việc trên, trách nhiệm của nhà trường, của gia đình là phải tìm đúng nguyên nhân vì sao trẻ bị chế giễu, trêu chọc và nếu câu chuyện trở nên nghiêm trọng thì chúng ta phải tìm cách can thiệp để trả lại sự công bằng và tự tin cho con trẻ. Lúc này, vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp là hết sức cần thiết để ngăn chặn những trò đùa giễu cợt bạn bè ở một số học sinh thiếu ý thức khi không biết tôn trọng người khác đặc biệt là tôn trọng sự khác biệt của mỗi cá nhân trong tập thể lớp học. Về phía gia đình, các bậc ông bà, cha mẹ cần giáo dục bản lĩnh, lòng tự tin cho con trẻ dù các cháu có bị một khuyết tật nào đó. Hãy chỉ dẫn cho trẻ có niềm tin vươn lên bằng cách cư xử nhã nhặn, lịch thiệp, bằng kết quả học tập hàng ngày sẽ tạo nên sức mạnh thuyết phục và từ đó làm tắt ngấm mọi sự trêu chọc, giễu cợt. Gia đình cũng cần liên hệ với các thầy cô giáo chủ nhiệm của lớp cháu học để cùng phối hợp tìm biện pháp giải quyết khúc mắc. Sau buổi tan trường, việc gia đình chủ động tìm gặp những cháu học sinh hay có thói quen trêu chọc để trao đổi nhẹ nhàng, để nhắc nhở các cháu là việc làm cần thiết giúp trẻ hiểu nhau trong tình cảm bạn bè chân thành, thương mến.
*
*    *
Giúp trẻ khi bị trêu chọc, chế giễu ở trường, đó là việc nên làm, cần làm. Đó cũng là trách nhiệm của nhà trường, của các bậc ông bà, cha mẹ khi muốn con cháu mình được thoải mái về mặt tâm lý để sống hòa nhập với bạn bè trong môi trường học đường. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên quá lo lắng vì bản chất tốt đẹp ở trẻ là luôn muốn được thân thiện, vui vẻ, cảm thông trong tuổi học trò đầy thơ mộng dù giữa chúng có những khác biệt về cá tính đến đâu chăng nữa. Tình bạn chân thành sẽ giúp trẻ hiểu nhau và vượt lên tất cả mọi trở ngại.


Trần Cự

Hãy phát huy và trân trọng tính hài hước của học sinh ở tuổi học đường



Nói về tính hài hước của con người, rất nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học trên thế giới đã khẳng định được vị trí quan trọng của sản phẩm đặc biệt này đối với trí tuệ con người, đối với mối quan hệ trong đời sống xã hội hàng ngày. Hài hước được xem là một phẩm chất tốt đẹp, là niềm vui, là sắc xanh rực rỡ nhất trên cây trí tuệ của con người cần được trân trọng, phát huy và đề cao.
Trong thực tế cuộc sống con người từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, hài hước đã góp phần làm cho đời sống tinh thần của chúng ta thêm khoẻ mạnh, vui tươi, lạc quan. Con người biết hài hước luôn mang trong mình một tâm lý vui vẻ, một nghị lực mạnh mẽ có thể vượt qua được tâm trạng héo hắt, buồn tủi, yếu đuối của chính mình khi phải đối mặt với những rủi ro trong cuộc đời. Mở rộng ra, con người biết hài hước, giỏi hài hước sẽ có một đời sống phóng khoáng cởi mở, sẽ biết hoà đồng với mọi người. Mất đi sự hài hước, cuộc sống vốn phong phú, đa dạng muôn sắc màu của thế giới chúng ta sẽ trở nên tẻ nhạt, khô khan, vô vị.
Chắc chắn sẽ có nhiều người biết đến John Rockefeller, một ông vua dầu lửa của nước Mỹ không chỉ nổi tiéng về sự giàu có mà còn nổi tiếng về tài hài hước của mình. Chính cuộc sống hài hước, yêu đời là một bí quyết đã giúp ông trường thọ tới tuổi 98. Người đời còn nhớ mãi câu chuyện đầy hài hước về ông. Một lần ông đến Washington làm việc và tìm đến một khách sạn với yêu cầu thuê một phòng nghỉ rẻ tiền nhất. Người lễ tân biết ông và vô cùng ngạc nhiên hỏi: “Thưa ngài! Con trai ngài đến khách sạn chúng tôi thường yêu cầu một phòng nghỉ đắt tiền nhất sao ngài lại chỉ thuê một phòng rẻ tiền nhất?”. Nghe vậy, Rockefeller vui vẻ cười và trả lời: “à! Điều dó dễ hiểu thôi, con trai tôi có một ông bố nhiều tiền, còn tôi thì không!”.
Như vậy, hài hước là một nhu cầu cần có trong đời sống mỗi con người. Không ít thì nhiều, con người sinh ra rồi lớn lên đều muốn cuộc sống vui vẻ, đều biết hài hước, đều thích hài hước nhưng phẩm chất đó có được phát huy hay không còn tuỳ thuộc vào năng khiếu bẩm sinh của mỗi người và môi trường sống của xã hội.
Đối với học sinh đang ở tuổi học đường cũng vậy. Ngay từ thủa ấu thơ, bản chất các em là thích vui chơi, đùa nghịch. Điệu múa, tiếng cười, tiếng hát ... vốn là niềm vui không thể thiếu được trong nhà trường, trong cuộc sống sinh hoạt tập thể của các em. Trên cơ sở ấy, tính hài hước của học sinh cũng được hình thành và phát triển dần trong cuộc đời các em. Điều này lý giải tại sao, ngay từ buổi đầu đến trường mẫu giáo, các cháu đã tỏ ra thích thú trước những câu chuyện ngụ ngôn, câu chuyện cổ tích thần kỳ có yếu tố hài hước nói về thế giới loại vật như: Thỏ và rùa, Thỏ và sói, ... Càng lớn lên các em sẽ tự tìm đến những cuốn sách mang lại tiếng cười sảng khoái như những câu truyện về trạng Quỳnh, về Ba Giai Tú Xuất, ... Các em cũng rất thích thú với những phim hài, với những tiết mục xiếc ngộ nghĩnh, vui nhộn do các diễn viên trình diễn. Các em cũng rất hâm mộ những nghệ sĩ hài biểu diễn như Xuân Hinh, Xuân Bắc, ... đặc biệt là danh hài nổi tiếng thế giới Charlie Chaplin.
Rõ ràng, hài hước là một nhu cầu không thể thiếu được trong cuộc sống của học sinh thường ngày. Biết hài hước, biết thưởng thức sự hài hước sẽ làm cho tâm hồn các em thêm phong phú, vui tươi, lành mạnh. Do vậy trong nhà trường chúng ta cần khuyến khích và trân trọng để học sinh biết sống hài hước, biết cách hài hước trong quá trình giao tiếp hàng ngày. Tất nhiên, chúng ta phải dạy cho các em cần biết hài hước với mức độ nào, hoàn cảnh nào cho phù hợp. Nói một cách khác, hài hước thực sự có giá trị khi người nói chỉ nhằm mục đích vui vẻ, không nhằm đả kích làm tổn hại tới danh dự của người khác.
Một thực tế và cũng là một tín hiệu vui khi trong nhà trường chúng ta đã xuất hiện những học sinh biết cách nói hài hước. Những em này có thể do năng khiếu tự nhiên, cũng có thể do học hỏi, tích luỹ từ sách vở, thực tiễn cuộc sống mà có. Những em này thường được bạn bè yêu mến vì đã mang đến niềm vui bằng tiếng cười cho cả lớp. Trong độ tuổi mẫu giáo, tính hài hước tự nhiên ở trẻ thường được gắn với cách nói ngộ nghĩnh, ngây thơ kết hợp với giọng nói, điệu bộ dễ thương. Thật buồn cười khi một cháu nhỏ 5 tuổi nói với mẹ khi trông thấy một chùm quả vải trong đó có những quả rời, rụng được người bán hàng “khéo léo” dùng dây buộc lại: “Mẹ ơi, con không thích những quả vải bị trói đâu mẹ ạ!”. Câu nói ngộ nghĩnh của bé càng làm chúng ta yêu quí bé hơn. Có một lần, tôi quan sát được một sự việc qua giờ ra chơi ở một trường tiểu học. Một học sinh không hiểu lý do gì đang tức giận đuổi đánh một bạn cùng lớp. Em học sinh bị đuổi đánh rất bình tĩnh, vừa né tránh, vừa xua tay nói: “Hãy đợi một chút đã để tớ đi mượn cây gậy thần của Tôn Ngộ Không rồi sẽ đánh nhau cũng chưa muộn!”. Tất cả các bạn có mặt trên sân chơi đều cười ồ và cơn nóng giận của học sinh kia cũng tan dần. Câu nói đầy hài hước và rất thông minh ấy đã cứu vãn được một tình thế khó xử.
Nếu chúng ta để ý sẽ nhận ra những học sinh biết hài hước thường mang nét tính cách thông minh, lanh lợi, hoạt bát trong học tập và trong cuộc sống. Tính hài hước cũng giúp cho học sinh hoà đồng với tập thể, vượt qua được tính trầm cảm được coi là một bệnh lý ở một số học sinh trong nhà trường hiện nay. Có một câu phương ngôn rất hay của nước ngoài đã từng nói: “Trang văn không có sự hài hước chỉ là một công văn, người mà không có khiếu hài hước chỉ là một pho tượng, gia đình không có sự hài hước chỉ là một nhà trọ, còn một xã hội không có sự hài hước là điều không thể tưởng tượng nổi”.
Nói tóm lại, hài hước là một phẩm chất quí rất đáng trân trọng, là người bạn đồng hành nên có đối với con người trong mối quan hệ xã hội vốn phong phú và không ít phức tạp hàng ngày. Đối với học sinh, hài hước sẽ giúp các em nhanh nhẹn hơn, thông minh hơn trong học tập và trong ứng xử. Từ đó tạo cho các em có một tác phong sống yêu đời, lạc quan và có nghị lực để vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống và trên đường đời. Tất cả xã hội nói chung, nhà trường nói riêng cần nuôi dưỡng, trân trọng, khuyến khích và hướng dẫn để học sinh biết hài hước, biết thưởng thức hài hước với mục đích làm cho tâm hồn các em phong phú, nhạy cảm; cuộc sống các em sẽ tràn đầy lạc quan và tốt đẹp hơn.
Trần Cự.



ĐI THAM QUAN TRANG TRẠI, MỘT CÁCH "VỪA VUI VỪA HỌC" HẤP DẪN MÀ BỔ ÍCH



Trần Cự

Giữa tiết mùa xuân của những ngày tháng Ba nắng nhẹ, mát mẻ, đẹp trời, đoàn xe ca gồm 14 chiếc xuất phát từ trường Tiểu học Hoàng Diệu thuộc Phường Cống Vị, quận Ba Đình, Hà Nội rầm rộ lăn bánh trong tiếng loa, tiếng trống cổ động, trong tiếng nói cười rôm rả đưa các cô giáo và các em học sinh khối lớp 1 và 2 đi tham quan trang trại tại Giang Biên, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Thật vui khi tôi cùng một số ông bà, cha mẹ được vinh dự tham gia chuyến đi thực tế này cùng lớp 1A1 do cô giáo Phạm Thị Thu Hiền làm chủ nhiệm.
Chiếc xe chở các em lớp 1A1 - những học sinh còn nhỏ tuổi của bậc tiểu học lần đầu tiên được đi tham quan xa nhà, xa trường đã gây được một ấn tượng đẹp đẽ. Trong sự chủ trì của anh hướng dẫn viên du lịch vui tính, các em nhỏ chơi trò đố vui và hát hò thật vui vẻ. Tuy vậy, ai cũng mong muốn có mặt sớm ở trang trại để được hiểu biết những điều mới lạ và vui chơi thỏa thích.
Đến địa điểm tham quan, xe chở các em dừng lại. Dưới sự chỉ đạo của cô giáo chủ nhiệm và người hướng dẫn viên, các em xuống xe trong niềm hân hoan, phấn khởi. Một không gian cảnh quan thiên nhiên rộng mở trong tầm mắt các em với bầu trời xuân trắng bạc, khoáng đạt, mát mẻ; với mầu xanh tít tắp trải rộng dài của nhiều loại cây xanh, cây ăn quả đứng thẳng hàng đẹp mắt dọc theo những con đường đi của khách tham quan. Như một đàn chim non, các em tíu tít theo cô giáo đi khắp trang trại để tận mắt nhìn thấy cảnh quan tươi đẹp của vườn cây, hoa trái, vật nuôi với bao điều mới lạ mà không ít em lần đầu tiên được thấy hoặc chỉ được thấy qua tranh vẽ, ti vi. Rõ ràng, cuộc sống nơi thành phố với xe cộ ồn ào, con người đông đúc, tất bật kiếm sống và khuôn viên trường học nơi đô thị chật chội, gò bó bao nhiêu thì giờ đây từ tầm mắt tới bước chân của các em được rộng mở nhường chỗ cho niềm vui và sự khám phá ùa vào tâm hồn bé thơ đầy nhạy cảm, cho sự tưởng tượng bay bổng của tuổi học trò giầu cảm xúc, hồn nhiên, tinh nghịch. Là một người ông cùng đi với các cháu, trong lòng tôi cũng thấy lâng lâng.
Trong buổi tham quan, thật vui vẻ náo nhiệt khi các em được tham gia những trò chơi tập thể như kéo co, múa sạp, bắt cá, vắt sữa bò, biểu diễn thời trang... Trò chơi nào cũng hấp dẫn, lôi cuốn các em với tiếng cười nói thích thú và em nào cũng muốn được tham gia cho dù có trượt ngã khi kéo co, bị ướt áo quần với trò chơi bắt cá trong bể. Đặc biệt là tiết mục "biểu diễn thời trang" sao mà ngộ nghĩnh và vui vẻ đến vậy ! Các "mốt" áo quần lạ mắt và đẹp một cách hồn nhiên được trang trí bằng lá cây, hoa trái rất sẵn trong trang trại khi xuất hiện luôn được các em vỗ tay cổ động không ngớt. Có lẽ trong tâm thức của nhiều em, kỷ niệm của ngày vui này sẽ không bao giờ phai nhạt.
Nhưng ấn tượng nhất vẫn là những việc làm "vừa vui vừa học" mà các em được tham gia một cách thích thú khi tập làm người trồng vườn, làm người nông dân chăm sóc cây trồng và vật nuôi. Các em được dẫn đến tham quan một khu vườn trong trang trại. Nhìn những luống hoa hồng, hoa dơn đủ mầu sắc, hoa cúc đại đóa màu vàng tươi khiến nhiều em ngắm nhìn không biết chán.Một nhóm các em khác cùng với các cô giáo đứng bên luống cà chua chín đỏ không muốn dời và ai cũng tranh thủ chụp một kiểu ảnh làm kỷ niệm cho chuyến đi đáng nhớ này.
Dưới sự hướng dẫn của các cô, các bác trong trang trại, các em học sinh lớp 1 lần đầu tiên trong đời cầm cái bay để tập trồng cây non trên luống. Tuy còn vụng về nhưng rồi các em cũng tự mình trồng được những cây cà chua, cây cải cúc nhỏ xinh và tưới nước cho cây. Nhìn các cháu mải miết làm việc, những ông bà tham gia tham quan trong đoàn cũng giúp các cháu, giảng giải để các cháu ý thức được sự vất vả và cần thiết về vai trò của những người làm vườn đã sản xuất ra nhiều loại rau xanh cung cấp cho bữa ăn hàng ngày của mọi người.
Các em còn được tới tham quan khu trang trại chăn nuôi gia súc với các vật nuôi như trâu, bò, lợn, gà, vịt, thỏ... Em nào cũng muốn đến sát chuồng để tận mắt nhìn thấy những con vật nuôi hiền lành, gần gũi và cho chúng ăn. Nhìn các em vui chơi một cách thích thú, tôi bỗng chợt nghĩ biết đâu trong số không ít em có mặt hôm nay, nay mai sẽ trở thành những kỹ sư trồng trọt, kỹ sư chăn nuôi giỏi đầy tâm huyết sẽ làm giầu cho quê hương, đất nước.
*
*   *

Thế là, sau một ngày làm quen với những công việc của người làm vườn, người chăn nuôi ở trang trại Giang Biên, sau một ngày được vui chơi thỏa thích, các em học sinh khối 1, 2 trường Tiểu học Hoàng Diệu đã gặt hái được từ chuyến đi thực tế những điều thật bổ ích trong tình cảm yêu thương đối với môi trường cảnh quan thiên nhiên đất nước, với vật nuôi, cây trồng, đặc biệt là tấm lòng quí mến, biết ơn đối với những người nông dân đã đổ mồ hôi công sức hàng ngày để làm ra của cải vật chất nuôi sống xã hội và con người. Chuyến đi tham quan đã để lại cho tuổi thơ, tuổi học trò những kỷ niệm sâu sắc không bao giờ phai mờ.

Đạo thầy trò


 Trần Cự
 


Dân tộc ta có một truyền thống tôn sư trọng đạo. Ngay từ thời xa xưa, vai trò của người thy giáo luôn được đề cao vì người thy là tiêu biểu cho tầng lớp trí thức tiên tiến được xã hội thừa nhận. Đạo thy trò được hình thành trong mối quan hệ hữu cơ mà người thy giáo phải là người có phẩm chất , đức độ, tài năng để truyền thụ kiến thức tới học trò và luôn là tấm gương sáng để học sinh noi theo. Đối với đạo làm trò thì phải luôn khắc sâu tấm lòng tôn kính và biết ơn sut đời trước công lao dạy dỗ của các thy cô giáo đã giúp ta trưởng thành.
Trong xã hội nào cũng vậy, nghề giáo luôn được đánh giá là nghề cao quý nhất và người thầy giáo luôn có vị thế quan trọng. Câu ca dao có từ ngàn xưa: “Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy” là một nét văn hoá về cách sống, cách cư xử mà ông cha ta muốn nhắc nhở tới con cháu. Công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ hai gia đình nội ngoại làm sao con cái có thể nào quên vì chữ hiếu được xem là cái gốc của đạo đức gia đình. Một điều quan trọng hơn nữa là phải tôn kính, biết ơn đối với thầy giáo, người đã giáo dục tư cách đạo đức, mở mang trí tuệ cho ta. Vì thế: “công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy” bao giờ cũng được nhân dân ta coi trọng, đề cao.
Nền giáo dục thời xưa cũng như ngày nay đều thống nhất một phương châm hết sức đúng đắn “Tiên học lễ, hậu học văn”, nhà trường luôn gắn với gia đình và xã hội trong đó vai trò của người thầy là hết sức quan trọng. Trong xã hội phong kiến, nghĩa Quân - Thần (vua – tôi) có khi cũng phải đứng sau nghĩa Thầy – Trò. Không ít những bậc quân vương khi gặp lại thầy dạy học vẫn cung kính xuống ngựa từ xa để chắp tay vái chào. Nhiều thầy giáo đạo cao đức trọng được các thế hệ môn sinh nể kính hơn cha và có vị trở thành quân sư với những lời chỉ giáo đúng đắn giúp cho các bậc vua chúa trị vì đất nước. Có thể nói rằng, đất nước ta có nhiều bậc thầy cao quý được nhân dân kính trọng như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai, Nguyễn Lân, Nguyễn Lương Ngọc, Phạm Huy Thông, Lê Trí Viễn, Nguyễn Cảnh Toàn, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, … Những bậc thầy như vậy đã đào tạo được nhiều thế hệ học trò giỏi và đã làm rạng danh đất nước ta, dân tộc ta trên trường quốc tế.
Rất nhiều những câu chuyện cảm động về đạo thầy trò đã đi vào lịch sử và mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với chúng ta ngày nay. Chu Văn An (1292 – 1370) được người đời tôn là “vạn thế sư biểu” - người thầy của muôn đời. Ông nổi tiếng là một nhà nho mẫu mực với học vấn sâu rộng, đạo đức sáng ngời và là một người thầy giáo tận tuỵ với nghề dạy học. Thầy Chu có tới 3.000 học trò, trong đó có nhiều người đỗ đạt cao, giữ nhiều chức tước trong triều đình đương thời như Phạm Sư Mạnh người Hải Dương, Lê Quát người Thanh Hoá. Hai người học trò này của Chu Văn An nổi tiếng đức độ, tài giỏi một thời, nhưng mỗi khi về thăm thầy cũ trong dịp lễ tết vẫn một mực cung kính theo đạo làm trò. Câu chuyện về vua Lê Hiến Tông (1497 – 1504) về thăm thầy dạy học cũng là một bài học quý về tình nghĩa thầy trò. Một lần vua Lê Hiến Tông về giỗ bà nội ở An Lão (nay là xã Song An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình) và đến thăm thầy giáo cũ của mình là cụ Châu Khê. Khi kiệu rồng đến đầu làng, nhà vua ra lệnh dừng kiệu và chọn một số cận thần cùng viên quan sở tại đi bộ đến nhà thầy. Người thầy giáo già cùng gia đình bày hương án nghênh tiếp. Đến nơi, nhà vua bước nhanh tới chỗ cụ Châu Khê. Theo nghĩa vua tôi, cụ sụp lạy, nhà vua hai tay vội đỡ lấy vai người thầy giáo già nói: “Xin lão sư bình thân để đệ tử này khỏi thất lễ”. Nhà vua cầm tay cụ và ân cần thăm hỏi rồi cùng bước vào nhà thầy. Vua nói với mọi người đang quỳ rạp bên đường: “Các ngươi hãy đứng lên để cùng ta vào nhà tôn sư. Hôm nay ta đến đây là học sinh về thăm thầy chứ không phải là Thiên tử đi kinh lý, nghi lễ ở chốn triều đình dùng vào lúc khác”. Còn thời nay thì chúng ta không thể nào quên câu chuyện về cố Tổng bí thư Trường Chinh về thăm thầy cũ. Sau ngày thủ đô Hà Nội giải phóng, vào độ tết Dương lịch 01/01/1955, Tổng bí thư Đảng Trường Chinh với bộ quần áo kaki giản dị đã đến số nhà 44 phố Hàng Bún thăm thầy giáo cũ - cụ giáo Mai Phương mà ông từng được học ở bậc thành chung khi còn là học sinh ở trường Quốc học Nam Định. Trải qua bao nhiêu năm xa cách và bận việc dân, việc nước, vị Tổng bí thư vẫn nhớ tới người thầy học cũ với lòng kính trọng, ngưỡng mộ và ông đã đến tận nhà thăm thầy. Hai thầy trò đã trò chuyện thật cởi mở, thân tình. Tổng bí thư giọng xúc động nói với cụ: “Hôm nay, lấy tư cách cá nhân một học trò cũ, tôi đến thăm thầy và chúc mừng năm mới thầy cô. Nhân dịp này, thầy cho phép tôi thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước cảm ơn thầy và gia đình ta đã hết lòng vì kháng chiến”. Cuộc gặp diễn ra tuy ngắn nhưng là cả một tình nghĩa thầy trò cao đẹp giữa một vị lãnh tụ cao cấp của Đảng và một nhà giáo yêu nước, suốt đời sống thanh bạch, tận tuỵ vì sự nghiệp giáo dục trồng người.

Như vậy, nét đẹp truyền thống của đạo thầy trò đã có từ ngàn xưa và được bảo tồn, phát triển cho đến ngày nay. Trong xã hội chúng ta, nhà giáo - Đạo làm thầy - được vinh danh là kỹ sư tâm hồn, nghề dạy học được coi là “nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Rất nhiều những nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú và hàng triệu thầy cô giáo từ bậc mẫu giáo đến bậc đại học đang mang hết công sức, trí tuệ, tâm huyết và vượt qua mọi gian khổ khó khăn để làm tốt sự nghiệp “trồng người” như lời huấn dạy của Bác Hồ kính yêu. Những người thầy ấy luôn được các thế hệ học trò, được toàn xã hội tôn vinh, biết ơn. Vì thế, những ngày lễ tết, ngày nhà giáo Việt Nam 20/11 hàng năm là dịp để các bậc phụ huynh cùng các em học sinh và những ai từng ngồi trên ghế nhà trường đều hướng về các thầy cô đã dẫn dắt chúng ta vững vàng bước vào cuộc đời với những tình cảm trân trọng, biết ơn, với những bó hoa tươi thắm. Mong rằng đạo thầy trò ngày càng tốt đẹp hơn và mang đậm ý nghĩa nhân văn  cao đẹp, phát huy được truyền thống tôn sư trọng đạo lâu đời của dân tộc.

Đan Loan (Hải Dương) – làng nghề nhuộm, làng khoa bảng nổi tiếng một thời




Từ xưa đến nay, làng quê Việt Nam bao giờ cũng là một đơn vị hành chính nhỏ nhất trong bộ máy tổ chức chính quyền của nhà nước. Mỗi làng trong quá trình hình thành và phát triển đều có lịch sử riêng mà người dân luôn tự hào để nhắc nhở lớp con cháu không quên cội nguồn. Làng Đọc – Làng Đan Loan xưa trong quá trình hình thành cũng không đứng ngoài quy luật đó. Tuy vậy, người dân Đan Loan vẫn có lý do riêng để tự hào về quê hương mình bởi trong công việc mở đất, lập làng là cả một câu chuyện cảm động thể hiện tình yêu thương đùm bọc giữa những con người đã chung lưng đấu cật vượt qua mọi gian khổ khó khăn để mưu sống và tồn tại; bởi trên mảnh đất này, người dân không chỉ cần cù mà còn nổi tiếng về truyền thống hiếu học đã sinh ra những bậc Tiến sĩ, cử nhân đặc biệt là danh nhân văn hoá Phạm Đình Hổ mà cả nước biết đến. Tuy vậy, Đan Loan còn nổi tiếng là một làng quê có nghề nhuộm điều với nhiều mầu sắc độc đáo đã từng làm đẹp tại chốn cung đình, làm đẹp cuộc đời đáp ứng được sở thích từ tầng lớp quí tộc đến người lao động bình thường.
Theo thần phả, tương truyền cách đây khoảng hơn nghìn năm, Đan Loan còn là một vùng đất hoang sơ đầy cây cối và cỏ lau rậm rạp. Ngày ấy ở tổng Minh Luân có vợ chồng cụ Độc tính tình hiền lành nhân hậu hay giúp đỡ mọi người, lại cần cù chịu khó làm ăn  nên gia đình cũng khá giả. Hiềm một nỗi, hai cụ tuổi đã khá cao mà vẫn chưa có con nối dõi tông đường. Với tấm lòng thương người và mong mỏi tuổi già đỡ hưu quạnh, hai cụ đã đến các làng lân cận để tìm, nhận những trẻ mồ côi không nơi nương tựa về làm con nuôi và lập thành một gia đình. Bẩy người con nuôi mà hai cụ nhận về được đặt tên theo họ là Bùi, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Dương, Đoàn. Các con lớn lên được hai cụ dựng vợ, gả chồng và chẳng mấy chốc đã trở thành những gia đình, dòng họ đông đúc. Cụ Độc đã xin phép làng được khai hoang vỡ hoá vùng đất cách xa làng cũ để lập ấp, cấy lúa tìm kế sinh nhai và sau này trở thành làng Đọc đông vui trù phú. Không chỉ dạy con biết cày bừa cấy hái, cụ Độc còn quan tâm tới việc học hành bằng cách mời thầy về dạy các con cháu, dân làng biết biết chữ nghĩa. Cụ đã cho dựng ngôi nhà gỗ 5 gian để làm nơi dạy học và đọc sách. Thế là một làng mới được hình thành mang tên làng Đọc, xưa thuộc tổng Minh Luân, huyện Đường An nay thuộc xã  Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Khi hai cụ qua đời, con cháu và dân làng vô cùng thương tiếc đã dựng tháp an táng ngay cạnh chùa Sùng Phúc và lập miếu thờ phụng chu đáo. Hàng năm, cứ vào ngày 14-9 âm lịch là ngày giỗ cụ Độc, ngày giỗ Tổ và cũng là ngày hội làng để dòng tộc, anh em nội ngoại và bà con xa gần hành hương trở về với mảnh đất cội nguồn.
Như vậy, cụ Độc là thuỷ tổ làng nhưng thành Hoàng làng lại là ông bà Triệu Xương - người đã có công truyền dạy cho dân làng Đọc nghề nhuộm điều với nhiều mầu sắc khác nhau, với cách pha chế đặc biệt để tạo nên những màu theo ý muốn chứ không chỉ mầu đen, mầu nâu thông thường. Lịch sử làng ghi lại: vào thời nước ta bị nhà Đường cai trị (năm 766), có một viên quan tên là Triệu Xương cùng phu nhân là công chúa Phương Dung đi qua vùng này thấy làng quê trù phú, dân làng chịu thương chịu khó lại ham học hỏi, chăm đọc sách nên ngụ lại đem nghề nhuộm vải, tơ lụa dạy cho dân làng. Từ đó, bên cạnh việc đồng áng, người làng Đọc có thêm nghề nhuộm - một nghề khiến dân làng giầu lên và nổi tiếng khắp cả nước. Thời ấy, trong dân gian đã có câu ca “Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Trằm”. Ngày nay, ở gần miếu thờ cụ Độc vẫn còn ngôi đền thờ ông bà Triệu Xương được tôn là Thần Hoàng làng cùng bài vị của chín bậc khoa bảng và danh nhân văn hoá Phạm Đình Hổ. Đền thờ đã được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá từ năm 1998.
Với nghề nhuộm tinh xảo và bàn tay tài hoa, người thợ nhuộm làng Đọc đã có mặt ớ khắp nơi từ thành phố tới miền quê để làm đẹp cho đời. Ngay từ thời Tiền Lê, những người thợ nhuộm giỏi của làng đã được vời vào cung điện để nhuộm vải vóc, tơ lụa với nhiều mầu sắc rực rỡ trang trí nơi cung đình và làm tàn, lọng, áo, mũ, tua, hoa ... gắn vào trang phục của các bậc vua chúa và các quan trong triều đình. Từ đó làng Đọc có tên mới là làng Đan Loan (theo chữ Hán: Đan là mầu đỏ, Loan là con chim phượng mái mầu đỏ). Ý nghĩa của hình tượng này muốn nói chim phượng mầu đỏ sẽ bay khắp nơi đem đến may mắn, đẹp đẽ cho cuộc đời. Cũng chính những người thợ tài hoa của Đan Loan đã có mặt ở kinh thành Thăng Long rất sớm. Họ đã lập nên phường nghề và làm ăn sinh sống ở phố Hàng Đào, mở chợ nhuộm riêng lấy tên là chợ nhuộm Hoa Lộc vừa buôn tơ lụa, vải vóc, vừa nhuộm đủ mầu sắc đã tạo nên một khu buôn bán sầm uất và dựng đình thờ thần Hoàng làng cùng Tổ nghề nhuộm là ông bà Triệu Xương tại ngôi nhà 90A phố Hàng Đào hiện nay. Trong đình vẫn còn 4 tấm bia ghi nhận quá trình xây dựng và trùng tu công trình trong đó nói về bẩy dòng họ của làng Đan Loan là Bùi, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Dương, Đoàn đã có công xây dựng nên ngôi đình. Nơi đây còn lưu giữ bàn thờ và chuông đồng có ghi 4 chữ: Hoa - Lộc – Đan – Loan. Tự hào về làng nghề nhuộm của mình, người Đan Loan từ lâu đã lưu truyền đôi câu đối đầy kiêu hãnh:
Thiên hạ thanh hoàng do ngã thủ
Triều đình chu tử tự ngô gia
Nghĩa là:
Thiên hạ có màu xanh, màu vàng đều do tay ta
Nơi Triều đình, mầu đỏ, mầu tía cũng từ nhà ta mà có.

*
                                                                    *          *

Với thuận lợi của một làng nghề thủ công - nghề nhuộm có thu nhập khá giả, lại là một vùng quê sớm được quan tâm tới việc học hành nên Đan Loan còn nổi tiếng là đất học với nhiều người dùi mài kinh sử. Lịch sử làng từng ghi lại, ngay sau khi nghề nhuộm phát triển, Đan Loan đã có trường học mang tên “Đông giao học hiệu” thu hút nhiều người theo học và có nhiều người hiển đạt. Đan Loan đã trở thành làng khoa bảng có số Tiến sĩ nhiều thứ hai trong huyện Bình Giang, chỉ sau làng Mộ Trạch. Tiêu biểu là các Tiến sỹ Bùi Thế Vinh, Vũ Thạch, Vũ Huyên, Vũ Huy, Đào Công Vũ Hương và nhiều các Tiến sĩ, cử nhân khác. Đan Loan còn là quê hương của danh nhân Phạm Đình Hổ, người đã để lại cho văn học nước nhà nhiều tác phẩm văn học có giá trị.
Sinh thời, Phạm Đình Hổ là người học rộng, giỏi văn thơ và có ý chí lập thân ngay từ nhỏ. Bài “Tự thuật” của ông trong “Vũ Trung tuỳ bút” đã thể hiện rõ khát vọng muốn làm được việc lớn cho đời: “Làm người con trai phải lập thân hành đạo, đó là phận sự của mình rồi, khỏi phải nói nữa. Sau này trưởng thành mà được lấy văn thơ nổi tiếng ở đời để cho người ta biết là con cháu nhà nọ, nhà kia, chí tôi chỉ muốn có thế mà thôi”. Mặc dù nhà nghèo, hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mất sớm, cuộc đời có nhiều lận đận, đi thi không đỗ đạt cao nhưng ông vẫn quyết tâm, say mê học tập và sáng tác thơ văn. Ông là tác giả của nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị về nhiều mặt: triết học, lịch sử, địa lý, ngôn ngữ và văn học. Ông đã có 22 tác phẩm còn lưu trữ ở viện nghiên cứu Hán – Nôm trong đó giá trị nhất là Vũ Trung tuỳ bút và Châu phong tạp khảo. Tuy chỉ đỗ Tú tài nhưng là người hiểu rộng, biết nhiều nên ông được vua Minh Mệnh hai lần vời vào kinh giao những trọng trách quan trong: Thừa chỉ Viện Hàn lâm rồi chức Quốc tử giám tế tửu (Hiệu trưởng trường Đại học Quốc gia lúc bấy giờ). Cuối đời, Phạm Đình Hổ về sống ở quê nhà vui thú điền viên và hàng ngày lấy việc đọc sách, làm thơ theo sở thích của mình. Ông đã mất tại quê nhà. Hiện nay, phần mộ và lầu bình thơ của ông vẫn còn và đã được Bộ Văn hoá – Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử - văn hoá năm 1999.
Ngày nay, nối tiếp truyền thống văn hoá lâu đời, truyền thống hiếu học, cần cù lao động và truyền thống cách mạng của ông cha xưa với nét đẹp về một làng nghề nhuộm, làng khoa bảng từng nổi tiếng một thời, người Đan Loan vẫn phát huy được những tinh hoa cổ truyền của tổ tiên để xây dựng nên làng văn hoá được nhà nước công nhận vào năm 1997. Đó là niềm vui, niềm tự hào của mỗi người dân làng Đọc – làng Đan Loan hôm nay.

Trần Cự

Thứ Tư, 4 tháng 12, 2013

Thi đàn Việt Nam trân trọng giới thiệu cảm nhận bài thơ "Tựa" - Trần Cự của Huỳnh Xuân Sơn

Tôi chưa biết tác giả Trần Cự, mới chỉ được đọc chùm thơ tiêu biểu của ông trên Tho.com.vn. Trong đó có bài thơ với chỉ một chữ Tựa làm tiêu đề cho bài thơ ! Nhưng khi đọc xong thì đối nghịch với tựa đề ngắn là một ý thơ tình thơ mênh mông và trĩu nặng. Dù chưa biết nhiều về thơ ông xong tôi vẫn muốn đồng hành cùng với:
Tựa
Giàu sang tựa mạn thuyền rồng
Khổ nghèo tựa lấy dòng sông kéo chài
Tiếng gà tựa ráng hồng mai
Đêm sâu tựa lấy hương nhài thoảng bay
Rét đông tựa gió heo may
Nỗi buồn tựa chén rượu cay lạnh lùng!
Riêng em biết tựa đâu cùng
Lẻ loi, đơn chiếc xuân hồng phôi pha.
Chênh vênh một buổi chiều tà
Giữa cô đơn bỗng nhận ra chính mình
Vấn vương bởi một chữ tình
Quyết không dứt bỏ tựa mình vươn lên.(Trần Cự)

Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát với mười hai câu thơ nhưng có tới tám từ Tựa đã nói lên rất nhiều điều trong mỗi con người và trong xã hội hôm nay.
Giàu sang tựa mạn thuyền rồng / Khổ nghèo tựa lấy dòng sông kéo chài
Đọc hai câu đầu thôi tôi nghĩ ngay đến câu
Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa ra quét lá đa.(ca dao)
Người giàu (bao gồm cả giàu của cải và giàu tình cảm) trong xã hội hiện tại họ có điểm tựa vững vàng cho cuộc sống, hình ảnh “thuyền rồng” làm điểm tựa cho họ vươn lên, vươn cao và vững chắc.
Còn tầng lớp đối lập với họ là những người “nghèo khổ” thì “tựa lấy dòng sông kéo chài”. Câu thơ này ngụ ý đại diện cho một tầng lớp người lao động nghèo. Chăm chỉ làm lụng đêm ngày may mắn cũng chỉ đủ ăn từng bữa, con cái họ nhiều khi thất học vì cha mẹ lo miếng ăn chưa đủ làm sao nghĩ tới chuyện học hành cho con.
ở đây còn có thêm ý nghĩa gần hơn,là răn dạy con cháu phải biết tùy theo hoàn cảnh gia đình mà sống sao cho phù hợp. Tránh cảnh cha mẹ làm thuê làm mướn chắt chiu từng đồng nuôi con ăn học, con thì lêu lổng đầu tóc nhuộm xanh, nhuộm đỏ, chơi game và đua đòi theo chúng bạn con nhà giàu có.
Và với bốn câu kế tiếp:
Tiếng gà tựa ráng hồng mai / Đêm sâu tựa lấy hương nhài thoảng bay / Rét đông tựa gió heo may /Nỗi buồn tựa chén rượu cay lạnh lùng!
Mỗi một sự việc hay sự vật đều có điểm tựa của mình, tuy không là tất cả, bởi gà nhiều khi cũng gáy ban trưa, điểm “tựa ráng hồng ban mai” sẽ không còn và trở nên lạc lõng.”Đêm sâu” cũng vậy đâu chỉ có thể tựa vào “hương nhài thoảng bay” và “rét đông”lại càng không thể chỉ lấy “gió heo may” làm điểm tựa cho cả mùa. Còn “nỗi buồn” mà mang tựa hoài vào “chén rượu cay lạnh lùng” thì cũng chỉ là điểm tựa trong lúc say mà thôi! Tỉnh rượu thì sao đây?
Bốn câu thơ này, tác giả đưa ra bốn điểm tựa mang tính tượng trưng cho từng chỗ đứng cụ thể để mà tựa những lúc nhất định nào đó, chứ không thể là điểm tựa chắc chắn được. Ẩn ý sâu xa mà tác giả muốn gửi gắm qua những: “Tiếng gà”, “Đêm sâu”, “Rét đông”, “nỗi buồn” mà lại cần “Tựa” là sao nhỉ, và các điểm Tựa này không phải là cần thiết và duy nhất. Nó là những điểm tựa mông lung. Xin  mang theo  câu hỏi này vào những câu thơ tiếp:
Riêng em biết tựa đâu cùng / Lẻ loi, đơn chiếc xuân hồng phôi pha.
Hé mở giải đáp cho câu hỏi thắc mắc một chút, bắt đầu bằng những điểm tựa chắc chắn và duy nhất, nếu tựa vô sẽ vững vàng mà tiến tới, rồi những điểm tựa mông lung và bây giờ là “Riêng em” thì đang “lẻ loi, đơn chiếc” và “xuân hồng” thì đã “phôi pha” rồi nhưng vẫn không  “biết tựa đâu cùng” dù là điểm tựa mông lung như “đêm sâu tựa lấy hương nhài thoảng bay” cũng không! Để giờ đây xuân sắc tàn phai mới thấy:
Chênh vênh một buổi chiều tà / Giữa cô đơn bỗng nhận ra chính mình / Vấn vương bởi một chữ tình /Quyết không dứt bỏ tựa mình vươn lên.
Em đã không có một chỗ tựa giữa lúc cô đơn ở buổi “chiều tà”. Bây giờ mới nhận ra sự “chênh vênh”bởi em đã “vấn vương bởi một chữ tình”.
Câu kết thể hiện một sự dứt khoát “quyết không dứt bỏ” tại sao lại phải dứt bỏ “chữ tình” mà mình “vấn vương”  thì tác giả không giải thích. Chỉ biết là nếu đã “quyết” vậy thì chỉ có “tựa mình” để mà “vươn lên” thôi!
Có lẽ giờ đây Em trong bài thơ Tựa của tác giả chỉ còn cách duy nhất là tựa vô chính mình để mà vươn lên thoát khỏi “chênh vênh” thoát khỏi “cô đơn” và không còn phải “vấn vương” tìm những điểm tựa mà vốn nó không thuộc về em, mà em đã mất công tìm kiếm bao năm qua để bây giờ khi mà “xuân hồng phôi pha”, mới chợt nhận ra nó không tồn tại cho em!
"Mình" ở đây cho em Tựa có thể  là “thuyền rồng” sang trọng quyền quý, là “dòng sông” với nghề “kéo chài” làm kế sinh nhai Và mình ở đây sẽ có đủ cả “đêm sâu…” , “Rét đông…” “nỗi buồn…” và rất nhiều những điểm tựa vô hình thuộc về em sẽ đến!
Bài thơ Tựa đã cho ta một thông điệp rất rõ ràng: không có điểm tựa nào là lý tưởng cho từng con người cụ thể vào những công việc và thời gian cụ thể, mà người muốn tựa được thành công cả. Chỉ có ta Tựa vào chính ta, với thực lực mà ta có dẫu  sang giầu hay nghèo khó, nếu biết tự lực cánh sinh thì ta sẽ có điểm tựa vững chắc cho chính ta vươn lên.

 Dù là công danh sự nghiệp hay là tình cảm cũng cần thông điệp mà tác giả Trần Cự gửi gắm qua bài thơ Tựa.
Sài Gòn 4/12/2013
Huỳnh Xuân Sơn

Nhà thơ Bùi Đăng Sinh và nhà thơ Trần Cự trước Hội trường Ba Đình