Từ xưa đến nay, làng quê Việt Nam bao giờ cũng là một đơn vị hành
chính nhỏ nhất trong bộ máy tổ chức chính quyền của nhà nước. Mỗi làng trong quá
trình hình thành và phát triển đều có lịch sử riêng mà người dân luôn tự hào để
nhắc nhở lớp con cháu không quên cội nguồn. Làng Đọc – Làng Đan Loan xưa trong
quá trình hình thành cũng không đứng ngoài quy luật đó. Tuy vậy, người dân Đan
Loan vẫn có lý do riêng để tự hào về quê hương mình bởi trong công việc mở đất,
lập làng là cả một câu chuyện cảm động thể hiện tình yêu thương đùm bọc giữa những
con người đã chung lưng đấu cật vượt qua mọi gian khổ khó khăn để mưu sống và tồn
tại; bởi trên mảnh đất này, người dân không chỉ cần cù mà còn nổi tiếng về truyền
thống hiếu học đã sinh ra những bậc Tiến sĩ, cử nhân đặc biệt là danh nhân văn
hoá Phạm Đình Hổ mà cả nước biết đến. Tuy vậy, Đan Loan còn nổi tiếng là một làng
quê có nghề nhuộm điều với nhiều mầu sắc độc đáo đã từng làm đẹp tại chốn cung đình,
làm đẹp cuộc đời đáp ứng được sở thích từ tầng lớp quí tộc đến người lao động bình
thường.
Theo thần phả, tương truyền cách đây khoảng hơn nghìn
năm, Đan Loan còn là một vùng đất hoang sơ đầy cây cối và cỏ lau rậm rạp. Ngày ấy
ở tổng Minh Luân có vợ chồng cụ Độc tính tình hiền lành nhân hậu hay giúp đỡ mọi
người, lại cần cù chịu khó làm ăn nên
gia đình cũng khá giả. Hiềm một nỗi, hai cụ tuổi đã khá cao mà vẫn chưa có con
nối dõi tông đường. Với tấm lòng thương người và mong mỏi tuổi già đỡ hưu quạnh,
hai cụ đã đến các làng lân cận để tìm, nhận những trẻ mồ côi không nơi nương tựa
về làm con nuôi và lập thành một gia đình. Bẩy người con nuôi mà hai cụ nhận về
được đặt tên theo họ là Bùi, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Dương, Đoàn. Các con lớn lên được
hai cụ dựng vợ, gả chồng và chẳng mấy chốc đã trở thành những gia đình, dòng họ
đông đúc. Cụ Độc đã xin phép làng được khai hoang vỡ hoá vùng đất cách xa làng
cũ để lập ấp, cấy lúa tìm kế sinh nhai và sau này trở thành làng Đọc đông vui
trù phú. Không chỉ dạy con biết cày bừa cấy hái, cụ Độc còn quan tâm tới việc học
hành bằng cách mời thầy về dạy các con cháu, dân làng biết biết chữ nghĩa. Cụ đã
cho dựng ngôi nhà gỗ 5 gian để làm nơi dạy học và đọc sách. Thế là một làng mới
được hình thành mang tên làng Đọc, xưa thuộc tổng Minh Luân, huyện Đường An nay
thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh
Hải Dương. Khi hai cụ qua đời, con cháu và dân làng vô cùng thương tiếc đã dựng
tháp an táng ngay cạnh chùa Sùng Phúc và lập miếu thờ phụng chu đáo. Hàng năm,
cứ vào ngày 14-9 âm lịch là ngày giỗ cụ Độc, ngày giỗ Tổ và cũng là ngày hội làng
để dòng tộc, anh em nội ngoại và bà con xa gần hành hương trở về với mảnh đất cội
nguồn.
Như vậy, cụ Độc là thuỷ tổ làng nhưng thành Hoàng làng
lại là ông bà Triệu Xương - người đã có công truyền dạy cho dân làng Đọc nghề
nhuộm điều với nhiều mầu sắc khác nhau, với cách pha chế đặc biệt để tạo nên những
màu theo ý muốn chứ không chỉ mầu đen, mầu nâu thông thường. Lịch sử làng ghi lại:
vào thời nước ta bị nhà Đường cai trị (năm 766), có một viên quan tên là Triệu
Xương cùng phu nhân là công chúa Phương Dung đi qua vùng này thấy làng quê trù
phú, dân làng chịu thương chịu khó lại ham học hỏi, chăm đọc sách nên ngụ lại đem
nghề nhuộm vải, tơ lụa dạy cho dân làng. Từ đó, bên cạnh việc đồng áng, người làng
Đọc có thêm nghề nhuộm - một nghề khiến dân làng giầu lên và nổi tiếng khắp cả
nước. Thời ấy, trong dân gian đã có câu ca “Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng
Trằm”. Ngày nay, ở gần miếu thờ cụ Độc vẫn còn ngôi đền thờ ông bà Triệu Xương được
tôn là Thần Hoàng làng cùng bài vị của chín bậc khoa bảng và danh nhân văn hoá
Phạm Đình Hổ. Đền thờ đã được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là di tích lịch
sử văn hoá từ năm 1998.
Với nghề nhuộm tinh xảo và bàn tay tài hoa, người thợ
nhuộm làng Đọc đã có mặt ớ khắp nơi từ thành phố tới miền quê để làm đẹp cho đời.
Ngay từ thời Tiền Lê , những người thợ nhuộm giỏi
của làng đã được vời vào cung điện để nhuộm vải vóc, tơ lụa với nhiều mầu sắc rực
rỡ trang trí nơi cung đình và làm tàn, lọng, áo, mũ, tua, hoa ... gắn vào trang
phục của các bậc vua chúa và các quan trong triều đình. Từ đó làng Đọc có tên mới
là làng Đan Loan (theo chữ Hán: Đan là mầu đỏ, Loan là con chim phượng mái mầu đỏ).
Ý nghĩa của hình tượng này muốn nói chim phượng mầu đỏ sẽ bay khắp nơi đem đến
may mắn, đẹp đẽ cho cuộc đời. Cũng chính những người thợ tài hoa của Đan Loan đã
có mặt ở kinh thành Thăng Long rất sớm. Họ đã lập nên phường nghề và làm ăn
sinh sống ở phố Hàng Đào, mở chợ nhuộm riêng lấy tên là chợ nhuộm Hoa Lộc vừa
buôn tơ lụa, vải vóc, vừa nhuộm đủ mầu sắc đã tạo nên một khu buôn bán sầm uất
và dựng đình thờ thần Hoàng làng cùng Tổ nghề nhuộm là ông bà Triệu Xương tại
ngôi nhà 90A phố Hàng Đào hiện nay. Trong đình vẫn còn 4 tấm bia ghi nhận quá
trình xây dựng và trùng tu công trình trong đó nói về bẩy dòng họ của làng Đan
Loan là Bùi, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Dương, Đoàn đã có công xây dựng nên ngôi đình.
Nơi đây còn lưu giữ bàn thờ và chuông đồng có ghi 4 chữ: Hoa - Lộc – Đan –
Loan. Tự hào về làng nghề nhuộm của mình, người Đan Loan từ lâu đã lưu truyền đôi
câu đối đầy kiêu hãnh:
Thiên hạ thanh hoàng do
ngã thủ
Triều đình chu tử tự ngô
gia
Nghĩa là:
Thiên hạ có màu xanh, màu vàng đều do tay ta
Nơi Triều đình, mầu đỏ, mầu tía cũng từ nhà ta mà có.
*
* *
Với thuận lợi của một làng nghề thủ công - nghề nhuộm
có thu nhập khá giả, lại là một vùng quê sớm được quan tâm tới việc học hành nên
Đan Loan còn nổi tiếng là đất học với nhiều người dùi mài kinh sử. Lịch sử làng
từng ghi lại, ngay sau khi nghề nhuộm phát triển, Đan Loan đã có trường học
mang tên “Đông giao học hiệu” thu hút nhiều người theo học và có nhiều người hiển
đạt. Đan Loan đã trở thành làng khoa bảng có số Tiến sĩ nhiều thứ hai trong huyện
Bình Giang, chỉ sau làng Mộ Trạch. Tiêu biểu là các Tiến sỹ Bùi Thế Vinh, Vũ Thạch,
Vũ Huyên, Vũ Huy, Đào Công Vũ Hương và nhiều các Tiến sĩ, cử nhân khác. Đan
Loan còn là quê hương của danh nhân Phạm Đình Hổ, người đã để lại cho văn học nước
nhà nhiều tác phẩm văn học có giá trị.
Sinh thời, Phạm Đình Hổ là người học rộng, giỏi văn thơ
và có ý chí lập thân ngay từ nhỏ. Bài “Tự thuật” của ông trong “Vũ Trung tuỳ bút”
đã thể hiện rõ khát vọng muốn làm được việc lớn cho đời: “Làm người con trai phải
lập thân hành đạo, đó là phận sự của mình rồi, khỏi phải nói nữa. Sau này trưởng
thành mà được lấy văn thơ nổi tiếng ở đời để cho người ta biết là con cháu nhà
nọ, nhà kia, chí tôi chỉ muốn có thế mà thôi”. Mặc dù nhà nghèo, hoàn cảnh gia đình
khó khăn, cha mất sớm, cuộc đời có nhiều lận đận, đi thi không đỗ đạt cao nhưng
ông vẫn quyết tâm, say mê học tập và sáng tác thơ văn. Ông là tác giả của nhiều
công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị về nhiều mặt: triết học, lịch sử, địa
lý, ngôn ngữ và văn học. Ông đã có 22 tác phẩm còn lưu trữ ở viện nghiên cứu Hán
– Nôm trong đó giá trị nhất là Vũ Trung tuỳ bút và Châu phong tạp khảo. Tuy chỉ
đỗ Tú tài nhưng là người hiểu rộng, biết nhiều nên ông được vua Minh Mệnh hai lần
vời vào kinh giao những trọng trách quan trong: Thừa chỉ Viện Hàn lâm rồi chức
Quốc tử giám tế tửu (Hiệu trưởng trường Đại học Quốc gia lúc bấy giờ). Cuối đời,
Phạm Đình Hổ về sống ở quê nhà vui thú điền viên và hàng ngày lấy việc đọc sách,
làm thơ theo sở thích của mình. Ông đã mất tại quê nhà. Hiện nay, phần mộ và lầu
bình thơ của ông vẫn còn và đã được Bộ Văn hoá –
Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử - văn hoá năm 1999.
Ngày nay, nối tiếp truyền thống văn hoá lâu đời, truyền
thống hiếu học, cần cù lao động và truyền thống cách mạng của ông cha xưa với nét
đẹp về một làng nghề nhuộm, làng khoa bảng từng nổi tiếng một thời, người Đan
Loan vẫn phát huy được những tinh hoa cổ truyền của tổ tiên để xây dựng nên làng
văn hoá được nhà nước công nhận vào năm 1997. Đó là niềm vui, niềm tự hào của mỗi
người dân làng Đọc – làng Đan Loan hôm nay.
Trần Cự

0 nhận xét:
Đăng nhận xét